“Học tập không phải phương tiện để thăng tiến, kiếm tiền hay làm giàu. Học tập là cao quý, là ca tụng nhân bản, là niềm vui được cắp sách tới trường và là ánh sáng văn minh.” Đó là định nghĩa hết sức thú vị của thầy Harfan hiệu trưởng ngôi trường Muhammadiyah trong Chiến Binh Cầu Vồng của tác giả Andrea Hirata. Đúng như cái tên, cuốn sách kể về những câu chuyện có thật của những con người ở tận đáy cùng của xã hội tại hòn đảo giàu có Belitong, Indonesia. Đó chính là 11 chiến binh cùng với thầy Harfan và cô Mus đã phải đấu tranh để bảo vệ quyền được giáo dục tại ngôi trường lâu đời nhất ở Belitong. Chiến Binh Cầu Vồng là tình cảm trong sáng, tình thầy trò, là những con người biết ước mơ, vượt qua hoàn cảnh trớ trêu của số phận và hơn hết cuốn sách đã mở ra cho người đọc một cái nhìn chân thực về giáo dục. Để từ đó, tôi đã chiêm nghiệm và rút ra được sáu bài học dành cho chính bản thân mình.
1. Giáo Dục Cần Những Người Như Thầy Harfan và Cô Mus
Thầy Harfan là hiệu trưởng của ngôi trường Muhammadiyah. Bằng ngôn từ của mình, thầy khơi gợi nơi bọn trẻ sự ham học hỏi và khiến chúng phải bừng tỉnh với lời khuyên không bao giờ được đầu hàng trước khó khăn gian khổ. Thầy thuyết phục 10 đứa trẻ rằng cuộc sống có thể mang lại hạnh phúc cho con người ta dù trong đói nghèo, miễn là cho đi càng nhiều càng tốt trong khả năng của mình chứ không phải cố hết sức để lấy đi. Nếu như thầy Harfan tốn rất nhiều công sức để gây dựng nên ngôi trường Muhammadiyah thì cô Mus đã phải vượt qua bao gian nan khổ ải để đi dạy tại ngôi trường này. Bởi vì làm giáo viên ở một trường làng nghèo khó, một nghề không tiền, mà người ta thường đùa với nhau rằng có điên mới lao vào đây. Thế nhưng cô giáo Mus và thầy hiệu trưởng Harfan đã hoàn thành sứ mệnh của mình một cách tận tụy và đầy trách nhiệm. Họ dạy tất cả các môn học. Sau một ngày vắt kiệt sức với học trò, cô Mus còn nhận thêm hàng về may suốt đêm, và ấy là kế sinh nhai của cô.
Giáo dục luôn cần những con người tận tụy và tâm huyết như vậy. Và tôi biết rằng ở ngoài kia, vẫn nhiều người đang rất cố gắng để nền giáo dục nước nhà ngày càng tốt hơn.
Thầy Harfan và cô Mus nghèo khổ đã mang đến cho tôi tuổi thơ đẹp nhất, tình bạn đẹp nhất, và tâm hồn phong phú, một điều gì đó vô giá, thậm chí còn có giá trị hơn những khao khát mơ ước. Có thể tôi lầm, nhưng theo ý tôi, đây thực sự là hơi thở của giáo dục và linh hồn của một chốn gọi là trường học.
2. Tình Bạn Tuổi Học Trò Thật Trong Sáng Và Đẹp Đẽ Biết Bao
Chiến Binh Cầu Vồng có cả sự trong sáng tuổi học trò lẫn những trò đùa tinh quái. Là lúc thằng Syahdan giả chết để rồi bị cả đám ném xuống bùn, là cái thằng A Kiong và con bé Sahara luôn khắc khẩu với nhau, là lúc tác giả phải lòng cô gái ở cửa hàng khi được giao nhiệm vụ đi mua phấn cho cô Mus và phải đút lót Kucai để được nó giao cái nhiệm vụ này. 11 đứa trẻ, mỗi đứa mang một gam màu riêng tạo thành một tập thể đa màu sắc. Họ đã cùng nhau trải qua mọi gian khổ, khó khăn để được đến trường. Là khi chiến thắng được trường PN để mang về hai chiếc cúp ấn tượng cho ngôi trường, dùng số tiền thưởng để mua những vật dụng thiết yếu cho lớp học để có thể vượt qua những thử thách của thanh tra và hy vọng sẽ giữ được ngôi trường lâu đời nhất ở hòn đảo Belitong này. Tất cả những đứa trẻ ấy đã cho tôi thấy tình bạn của tuổi học trò thật đẹp đẽ và đáng yêu biết bao. Trong cuộc sống, nếu có một tình bạn đẹp là ta đã có một niềm hạnh phúc lớn lao. Thứ tình cảm ấy nhẹ nhàng như nắng ban mai vậy.
Điều lạ lùng là, dù té ngã, đâm sầm vào nhau và lăn quay ra đau thế nhưng bọn tôi luôn cười vang khoái chí và bỡn cợt nhau nữa - đây chính là điều hấp dẫn nhờ trò chơi không tên đó. Bọn tôi cứ chơi đi chơi lại trò đó. Không bắt nguồn từ cái góc của đầy thách thức hay tốc độ và sức nặng mà là bởi chúng tôi thích thế - ý thích ngốc nghếch trong những ngày mùa mưa. Cuộc sống dù khó khăn chật vật biết mấy sống những tháng cuối năm với bọn chúng tôi bao giờ cũng thật thú vị. Buổi tiệc mùa mưa chính là một lễ hội được thiên nhiên bày ra cho những đứa trẻ Mã Lai nghèo khổ chúng tôi.
3. Muốn Thi Đậu Ư? Mở Sách Ra Và Học Đi!
Flo và Mahar do cứ mải vẩn vơ với tổ chức bí mật mà hai đứa nó thành lập - Societeit de Limpai. Điểm của Flo và Mahar còn tụt dốc nhanh hơn cả vận động viên nhảy dù tự do. Vì vậy, Mahar nghĩ ra được một chiêu hết sức ngớ ngẩn: đi gặp vua pháp sư. Nó tin rằng vị pháp sư nửa người nửa ma có thể sửa điểm sáu thành chín, điểm bốn thành tám dễ như bỡn. Để gặp được Pháp sư, những người họ phải đối mặt với tử thần, đi đến Đảo Hải tặc. Cuối cùng, vị Pháp sư đã đưa cho Mahar một cuộn giấy với nội dung như sau:
“Nếu các ngươi muốn thi đậu
hãy mở sách ra mà học đi!”
Bạn có thấy bản thân mình trong đó không? Chúng ta mải mê giải trí, bỏ bê học tập. Để rồi khi kỳ thi đến, ai nấy đều cuống cuồng cả lên, nhưng có mấy ai học bài? Nếu thật sự đã học, thì bạn đã không phải cuống. Đêm trước khi thi, nhiều người hay share những bài kiểu như “share quả xoài/ đĩa thần để qua môn” để an ủi tâm trí mình. Sau đó thì sao? Số phận của bạn phó mặc cho đứa bạn cùng bàn. Chính vì vậy, muốn học tốt, điểm đẹp, không thể ngồi đó và cầu nguyện được, cũng chẳng có phép màu nào hiện ra. Điều duy nhất chúng ta có thể làm là “mở sách ra mà học đi!”. À mà đừng để trước giờ thi mới “mở” nhé!
4. Đừng Đổ Lỗi Cho Thượng Đế
Có lần sấm chớp đì đùng, mưa như trút nước xuống lớp học. Nhưng mặc cho trời mưa, những đứa trẻ vẫn ngồi im không nhúc nhích một li vì không muốn cô Mus phải bỏ lỡ bài giảng của mình. Có khi Lintang phải đi hơn 40 cây số và chiến đấu với tử thần trên đường đến trường. Là những lúc thầy Harfan đạp xe 100 cây số để bán trái cây và dùng số tiền đó mua sách cho đám trẻ, là khi cô Mus tranh thủ may cả ngày lẫn đêm để chuộc Kucai về, vì đối với cô “chỉ mất một học trò thôi là coi như cô mất cả nửa linh hồn”. Khó khăn từ lần này đến lần khác như muốn thách thức họ. Nhưng 11 chiến binh ấy cả thầy Harfan và cô Mus vẫn không một lần than vãn, không đổ lỗi cho hoàn cảnh hay bất cứ thứ gì khác. Họ chỉ đơn giản cùng nhau vượt qua, vì họ tin rằng ngày mai sẽ tươi đẹp hơn. Câu chuyện của họ đã dạy tôi rằng, đừng đổ lỗi cho hoàn cảnh hay Thượng Đế, đừng tin vào câu nói “đến giày dép còn có số”, đừng đầu hàng số phận khi chúng ta còn chưa bắt tay vào hành động.
Những ai thất bại trong một khía cạnh nào đó của cuộc sống đổ hết lỗi cho thượng đế. Họ thấy nếu họ nghèo, đó là vì Thượng đế bắt số họ phải như thế. Những ai đã mệt mỏi vì luôn phải gồng mình lên thì buông xuôi, đợi bàn tay định mệnh thay đổi số phận. Những ai không muốn làm việc cực nhọc thì chấp nhận số phận vì họ tin là nó không thể thay đổi. Mọi thứ đều được định trước cả rồi, hay họ tin như thế.
5. Đôi Khi Con Người Không Thoát Khỏi Hoàn Cảnh Nghiệt Ngã Của Cuộc Sống
Trong cả mấy năm đi học, Lintang chưa vắng mặt lần nào. Dù mưa gió, dù có bận làm công việc nạo cùi dừa khô. Nhưng vì cha mất, cậu bé ấy phải nghỉ học để đi làm nuôi tận mười bốn miệng ăn. Khi ông được chôn, thì niềm hy vọng lớn lao nhất của con trai ông cũng bị chôn vùi theo, cái chết của ông cũng giết luôn cả những hoài bão cháy bỏng của đứa con. Hai con người phi thường ấy rốt cuộc cũng bị chôn vùi trong sự trớ trêu của số phận. Câu chuyện của Lintang là một câu chuyện không hiếm gặp ở thế giới này. Thường thì chúng ta hay xem thời sự, sẽ thấy các câu chuyện về những đứa trẻ thông minh xuất thân nghèo khó không được ai ngó ngàng tới. Với những ước mơ đầy cao đẹp, nhưng không đủ khả năng và điều kiện để thực hiện nó. Để rồi những giấc mơ ấy bị đè bẹp bởi một chữ: Nghèo! Điều này thật không công bằng, nhưng chúng ta phải chấp nhận nó. Khi con người ta vẫn chưa thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn của đói nghèo, thì liệu họ có nhận thức được việc đi học là một quyền cơ bản của con người?
Nhưng hôm nay, Lintang chỉ là một người đàn ông nhỏ bé ngồi đợi đến ca làm việc nặng nhọc. Làm việc cả ngày lẫn đêm, ngậm ngùi từ bỏ niềm khao khát cao quý là được trở thành một nhà toán học để làm công cho những ông chủ thủy tinh đổi lấy vài đồng tiền công còm. Tôi nhớ da diết ngày xưa lúc trước cậu nhắm mắt lại không đầy mười giây mà có thể giải được một bài toán hóc búa. Khi cậu hét vang. “Jeanne d’Arc!” Khi cậu đứng trên bục vinh quang nhận cúp học sinh giỏi, cậu khiến cho chúng tôi tự hào và tự tin biết mấy. Giờ cậu ngồi đây nơi góc lán, không biết tương lai sẽ ra sao.
6. Sau cùng, Hãy Sống Như Những “Chiến Binh Cầu Vồng”
Bạn thấy đấy, cuộc đời thật nghiệt ngã biết bao khi con người luôn bị gánh nặng cơm áo gạo tiền bủa vây. Để rồi những ước mơ cao đẹp ấy phải tạm gác lại, và không biết đời này có thực hiện được nữa không. Trong 11 chiến binh cầu vồng và cả cô Mus ấy, vẫn có những đứa thực hiện được ước mơ cháy bỏng của mình. Đó chính là Kucai, một thằng khi đi học luôn đứng chót lớp, giờ đây đã được bầu làm dân biểu. Là Ikal tranh thủ đọc sách khi phân loại thư, trong khi ăn, trong khi nằm trên giường hay bất cứ khi nào Ikal có thời gian rảnh. Để rồi cuối cùng, cậu ấy đã giành được suất học bổng thạc sĩ từ Liên minh Châu Âu, được đi nhiều nước, tiếp xúc nhiều người. Và là tác giả của cuốn sách bán chạy nhất Indonesia - Chiến Binh Cầu Vồng.
Vậy những người còn lại thì sao? Họ vẫn là những chiến binh! Bởi vì họ đã sống hết mình trong những ngày tháng được đến trường. Là thằng Mahar thích mơ mộng giành được chiếc cúp nghệ thuật danh giá, hay Lintang đã lấy chiếc cúp Học sinh giỏi để đáp lại sự hy sinh của mẹ, vì mẹ đã cho bán chiếc nhẫn cưới để nó tiếp tục đi học. Là những khi phải đối mặt với cái máy xúc, là cái chết báo trước của thầy Harfan, hay những ngày tháng phải ngồi dưới lớp học bị dột, tay cầm dù, còn cô Mus cầm tàu lá chuối để giảng bài mặc cho sấm chớp đì đùng. Rất nhiều, rất nhiều những thử thách mà mười một đứa trẻ phải vượt qua để giữ được ngôi trường Muhammadiyah. Đối với chúng, đi học không phải là trách nhiệm, mà là niềm vui được cắp sách đến trường, là ánh sáng của nền văn minh. Tuy cái ánh sáng ấy sau này bị mờ nhạt bởi sự nghèo đói, túng quẫn nhưng điều quan trọng là nó đã sáng. Để rồi lưu lại những ký ức đẹp trong lòng mỗi người và cả của độc giả. Quan trọng là chúng đã dám đấu tranh, vượt qua thử thách, đã dám sống với ước mơ của chính mình.
Rồi tôi nhớ đến lời hứa xưa kia của mình - lời hứa năm lớp sáu khi tôi trông thấy cô Mus băng qua sân trường, đội trên đầu tàu lá chuối dưới cơn mưa. Tận sâu trái tim nhỏ bé của tôi lúc ấy, tôi hứa sẽ viết một cuốn sách về cô Mus. cuốn sách sẽ là món quà tôi dành cho cô, bằng chứng rằng tôi thực sự trân trọng và đánh giá cao tất cả những gì cô đã làm cho chúng tôi. Hai ngày sau, ở Bandung, tôi đi làm về và bắt đầu viết cuốn sách. Những ngày sau đó, tôi khúc khích cười, xúc động, bực bội và khóc nức nở lúc nửa đêm - một mình. Tôi say sưa viết cho đến lúc nhìn lại đã thấy được 600 trang...
Lời Kết
Chiến Binh Cầu Vồng là những hồi ức đẹp nhưng buồn. Tôi nhận ra không phải ai cũng may mắn được cắp sách đến trường mà không bị gánh nặng cơm áo gạo tiền đè lên. Tôi biết rằng hơi thở và linh hồn của giáo dục được thầy cô gìn giữ và nuôi nấng tại một chốn mang tên trường học. Cuốn sách đã dẫn dắt tôi đi qua tất cả cung bậc của cảm xúc. Vui có, buồn có, rung động, bồi hồi và để lại trong tôi một ấn tượng không thể quên.
Tác giả: Hồng Dịu - Bookademy
Hình ảnh: Hồng Dịu - Bookademy
______________
Theo dõi fanpage của Bookademy để cập nhật các thông tin thú vị về sách tại link: Bookademy
Bạn đam mê viết lách, yêu thích đọc sách và muốn lan tỏa văn hóa đọc tới cộng đồng của YBOX.VN? Đăng ký để trở thành CTV Bookademy tại link: http://bit.ly/bookademy_ctv
(*) Bản quyền bài viết thuộc về Bookademy - Ybox. Khi chia sẻ hoặc đăng tải lại, vui lòng trích dẫn nguồn đầy đủ "Tên tác giả - Bookademy." Các bài viết trích nguồn không đầy đủ cú pháp đều không được chấp nhận và phải gỡ bỏ.
Có những nơi trên thế giới này, nơi mà giấc mơ được gieo trồng không phải bởi những bàn tay đầy đủ, mà bởi những trái tim không ngừng khát khao và niềm tin mãnh liệt vào tương lai. Ở đó, học tập không chỉ là một hành trình tích lũy kiến thức, mà còn là ngọn đuốc thắp sáng những con đường tưởng chừng như mịt mù. Nơi những trang sách cũ kỹ, những phấn trắng bảng đen giản dị trở thành biểu tượng của hy vọng, mở ra cánh cửa dẫn lối đến một thế giới rộng lớn hơn, nơi những điều kỳ diệu đang chờ đợi. Giữa những căn phòng học tồi tàn, những tiếng cười giòn tan xen lẫn giọng đọc bài rộn ràng, ta cảm nhận được sự sống động từ những đôi mắt sáng ngời, ánh lên niềm tin rằng tri thức có thể thay đổi số phận. Trong bức tranh đơn sơ của những ngôi trường nhỏ bé, từng viên phấn, từng bài học lại là những mảnh ghép hoàn chỉnh của giấc mơ lớn lao – giấc mơ được học tập, giấc mơ thoát khỏi đói nghèo, và giấc mơ về một tương lai tươi sáng hơn.
"Chiến Binh Cầu Vồng" chính là lời kể đầy xúc cảm về hành trình chạm đến giấc mơ ấy. Một hành trình mà những người trẻ không chỉ chiến đấu với nghèo khó, thiếu thốn mà còn đối mặt với định kiến và những rào cản tưởng chừng bất khả vượt qua. Trong từng dòng chữ, ta nhận ra rằng việc học không chỉ là quyền lợi, mà còn là một đặc ân lớn lao. Những đứa trẻ trong câu chuyện ấy không đơn thuần là học sinh; chúng là chiến binh dũng cảm, mang trong mình sự kiên cường để dám mơ ước và nỗ lực vươn lên.
Andrea Hirata, một trong những nhà văn nổi bật nhất của Indonesia, đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả toàn cầu với tác phẩm đầu tay "Chiến binh cầu vồng" (Laskar Pelangi). Sinh ra tại đảo Belitung, một vùng đất hoang sơ nhưng đầy chất thơ, Hirata lớn lên trong cảnh nghèo khó, nơi mà giáo dục được xem như một giấc mơ xa vời. Chính những trải nghiệm thời thơ ấu đã trở thành nguồn cảm hứng mạnh mẽ cho các tác phẩm của ông, đặc biệt là câu chuyện cảm động về hành trình vượt qua nghịch cảnh để chạm tới ước mơ trong "Chiến binh cầu vồng." Là một người có nền tảng học vấn ấn tượng, Hirata tốt nghiệp ngành kinh tế tại Indonesia và tiếp tục nhận học bổng theo học tại các trường danh tiếng như Đại học Sorbonne, Pháp, và Đại học Sheffield Hallam, Anh. Sự kết hợp giữa bề dày kiến thức học thuật và những bài học từ cuộc sống thực tế đã tạo nên phong cách viết độc đáo, giàu cảm xúc của ông. "Chiến binh cầu vồng" không chỉ khẳng định tài năng của Hirata mà còn mang đến tiếng nói mạnh mẽ về tầm quan trọng của giáo dục và khát vọng vươn lên từ nghịch cảnh.
Lấy cảm hứng từ chính cuộc đời mình, Hirata đã dệt nên một câu chuyện đong đầy hy vọng và lòng kiên cường. "Chiến binh cầu vồng" kể về nhóm học sinh nghèo tại một ngôi trường làng đơn sơ trên đảo Belitung, nơi mà giáo dục được nuôi dưỡng bởi niềm tin và sự tận tâm của những người thầy. Dưới lớp vỏ hiện thực khắc nghiệt là thông điệp sâu sắc về tình bạn, sự bền bỉ, và sức mạnh của ước mơ, khiến tác phẩm không chỉ là một hiện tượng văn học tại Indonesia mà còn là nguồn cảm hứng vượt thời gian cho bất kỳ ai tin vào giá trị của tri thức và sự nỗ lực không ngừng.
Gây ấn tượng mạnh mẽ với tôi đó chính là bối cảnh mà tác giả đã đặt ra - Hòn đảo Belington và cuộc sống vô cùng nghèo khó của người dân nơi đây. Đây là một hòn đảo nhỏ thuộc Indonesia, được thiên nhiên ưu ái với nguồn tài nguyên phong phú. Từng là trung tâm khai thác thiếc lớn, nơi đây còn nổi tiếng với các cánh đồng tiêu bạt ngàn. Tuy nhiên, vẻ đẹp thiên nhiên này lại tương phản hoàn toàn với cuộc sống nghèo nàn của người dân trong thập niên 1980. Mặc dù đất đai giàu tiềm năng, phần lớn tài nguyên thuộc quyền kiểm soát của các công ty nước ngoài, khiến người dân địa phương không được hưởng lợi từ chính tài nguyên quê hương mình. Để mưu sinh, nhiều người làm việc trong các công trường khai thác thiếc hoặc các đồn điền tiêu, nhưng đồng lương họ nhận được vô cùng ít ỏi. Trung bình, một tháng lao động cực nhọc chỉ mang về khoảng 5 đô la Mỹ, không đủ để trang trải cuộc sống cơ bản. Những căn nhà ọp ẹp, những bữa cơm thiếu thốn, và nỗi lo cơm áo gạo tiền là thực tế hàng ngày mà người dân trên đảo phải đối mặt. Trong bối cảnh đó, giáo dục không được coi trọng, thậm chí trở thành điều xa xỉ. Đối với nhiều gia đình nghèo, việc cho con đi học bị xem như một khoản đầu tư không mang lại giá trị thiết thực. Thay vì đến trường, trẻ em thường phải nghỉ học từ sớm để phụ giúp gia đình. Nhiều em phải làm thuê tại các công trường khai thác hoặc làm công việc chân tay cho các chủ doanh nghiệp người Hoa giàu có. Đây chính là hình ảnh hiện thực khắc nghiệt bao trùm lên Belitong, nơi mà cơ hội đổi đời thông qua giáo dục trở thành một giấc mơ xa vời.
Và rồi, trong hoàn cảnh khắc nghiệt ấy, trường Tiểu học Hồi giáo Muhammadiyah là một điểm sáng nhỏ nhoi giữa bóng tối nghèo khó. Ngôi trường được thành lập từ mục tiêu cao cả là mang lại cơ hội học tập cho những đứa trẻ nghèo. Tuy nhiên, hoạt động của trường luôn bị đe dọa bởi tình trạng thiếu học sinh. Ngày khai giảng, không khí tại trường vừa tràn ngập hy vọng vừa đầy lo lắng. Theo quy định, trường phải có ít nhất 10 học sinh mới được phép tiếp tục hoạt động. Nhưng đến sát giờ khai giảng, chỉ có 9 học sinh ghi danh. Tâm trạng thầy hiệu trưởng Harfan, cô giáo Mus và các phụ huynh vô cùng căng thẳng. Họ lo rằng giấc mơ học tập của các em sẽ bị dập tắt ngay từ khi chưa bắt đầu. Tưởng chừng mọi hy vọng đã tan biến, Harun – một cậu bé thiểu năng trí tuệ – xuất hiện như vị cứu tinh. Harun trở thành học sinh thứ 10, giúp trường thoát khỏi nguy cơ đóng cửa. Mặc dù khả năng học tập của Harun hạn chế, sự có mặt của em mang đến niềm tin mãnh liệt rằng chỉ cần có ý chí, mọi khó khăn đều có thể vượt qua. Khoảnh khắc ấy đã trở thành một biểu tượng cho sức mạnh của hy vọng trong hoàn cảnh ngặt nghèo.
Tuy nhiên cuộc sống học đường của các bạn nhỏ chưa bao giờ là dễ dàng, ngay cả khi đã duy trì hoạt động, trường Tiểu học Hồi giáo Muhammadiyah vẫn phải đối mặt với muôn vàn khó khăn. Ngôi trường 120 năm tuổi, được xây dựng bằng gỗ và lá cọ, dường như không thể che chắn nổi trước mưa gió. Không có điện, nước sạch hay cơ sở vật chất tối thiểu, các em học sinh phải học tập trong điều kiện thiếu thốn trầm trọng. Trường không đủ tiền để mua sách vở, bàn ghế hay dụng cụ học tập. Thậm chí, quốc huy treo trên tường cũng được vẽ thủ công. Mỗi ngày, các em học sinh ngồi trên những chiếc ghế gãy, viết bài trên bàn gỗ mòn vẹt. Nhưng điều đáng khâm phục là dù đối mặt với sự thiếu thốn ấy, không một ai nản chí. Học sinh đến lớp mỗi ngày với tinh thần hăng say và lòng quyết tâm. Với các em, học tập là cơ hội duy nhất để thoát khỏi cảnh nghèo đói.
Trong số các bạn học sinh đó, tôi ấn tượng nhất với Lintang là một tấm gương sáng ngời về ý chí và sự quyết tâm. Lintang, con trai của một ngư dân nghèo, phải vượt qua quãng đường 40 km mỗi ngày để đến trường. Con đường đến lớp của cậu bé không hề dễ dàng, khi phải băng qua những khu rừng đầm lầy, nơi đầy rẫy những con cá sấu hung dữ. Dù nguy hiểm, Lintang chưa bao giờ nghĩ đến việc bỏ học. Khi chiếc xe đạp – phương tiện duy nhất của cậu – bị hỏng, Lintang đã bán nhẫn cưới của cha mẹ để sửa xe, tiếp tục hành trình đến trường. Sự hy sinh ấy không chỉ phản ánh tinh thần học tập phi thường của Lintang mà còn cho thấy sự đồng lòng của gia đình cậu trong việc đặt niềm tin vào giáo dục.
Và không chỉ có Lintang, Mahar, một cậu bé tài năng nghệ thuật, cũng mang lại nguồn cảm hứng lớn lao. Với năng khiếu đặc biệt, Mahar sáng tạo ra các tiết mục văn nghệ, giúp các bạn có thêm động lực và niềm vui giữa những ngày học tập khó khăn. Chính sự kết hợp giữa trí tuệ và nghệ thuật đã giúp nhóm học sinh tự tin hơn, mơ ước lớn hơn và vững bước trên con đường học tập.
Tuy nhiên khi nhắc đến sự thành công của trường Tiểu học Hồi giáo Muhammadiyah không thể không nhắc đến vai trò của các giáo viên tận tụy, đặc biệt là thầy hiệu trưởng Harfan và cô giáo Mus. Thầy Harfan, người đã cống hiến cả cuộc đời cho ngôi trường, là một hình mẫu về lòng yêu nghề và sự hy sinh. Dù không nhận được đồng lương nào, thầy vẫn kiên trì đi từng nhà thuyết phục phụ huynh cho con đến trường. Những lời động viên chân thành của thầy đã giúp nhiều gia đình nhận ra tầm quan trọng của giáo dục. Ngay cả khi sức khỏe suy kiệt, thầy Harfan vẫn làm việc không ngừng nghỉ và qua đời ngay trên bàn làm việc – một minh chứng cho lòng tận tụy không giới hạn. Và cô giáo Mus, người từ bỏ nhiều cơ hội lớn trong sự nghiệp để gắn bó với trường, đã dành cả tâm huyết cho các em học sinh. Cô không chỉ là một người truyền đạt kiến thức mà còn là chỗ dựa tinh thần, giúp các em vượt qua mọi khó khăn. Nhờ cô Mus, các em không chỉ học tập mà còn học cách nuôi dưỡng niềm tin và lòng kiên trì.
Và từ đó, tôi cảm nhận và thấu hiểu sâu sắc rằng: Chiến binh cầu vồng không chỉ là một câu chuyện về sự nghèo khó, mà hơn thế nữa, là minh chứng cho sức mạnh phi thường của ý chí, niềm tin và tinh thần vượt khó. Trên đảo Belitong nhỏ bé, nơi mà sự thiếu thốn luôn đeo bám từng bước đi, các em học sinh cùng thầy cô giáo trường Muhammadiyah đã chứng minh rằng, dù cuộc sống khắc nghiệt đến đâu, con người vẫn có thể giữ vững niềm tin vào một tương lai tốt đẹp hơn. Câu chuyện của họ khắc họa một cách rõ nét giá trị trường tồn của giáo dục – không chỉ đơn thuần là một phương tiện để thoát nghèo, mà là ánh sáng soi rọi nhân cách, hun đúc ý chí và thắp lên ngọn lửa hy vọng cho những tâm hồn trẻ thơ. Qua từng trang sách, tôi nhận ra rằng trong mọi khó khăn, giáo dục chính là ngọn hải đăng dẫn lối, là biểu tượng của khát khao tri thức và lòng kiên định trước nghịch cảnh. Từ hình ảnh của thầy Harfan, cô Mus, cho đến những giấc mơ giản đơn nhưng cao cả của các em học sinh, tôi học được bài học quý giá về sự kiên nhẫn, lòng yêu thương và khát vọng không ngừng nghỉ.
Hơn thế, câu chuyện còn gợi lên một thông điệp sâu sắc: không phải kết quả cuối cùng, mà chính hành trình dấn thân và chiến đấu vì ước mơ mới là điều làm cho cuộc sống trở nên ý nghĩa. Dù cho thực tại nghiệt ngã có thể dập tắt những giấc mơ tươi đẹp, nhưng những khoảnh khắc mà các em dám hy vọng, dám chiến đấu cho tương lai của mình đã đủ để khẳng định giá trị của cuộc đời. Đây không chỉ là bài học dành cho những chiến binh cầu vồng, mà còn là lời nhắc nhở mạnh mẽ cho tất cả chúng ta: hãy luôn giữ vững niềm tin, bởi chính nó sẽ là sức mạnh giúp chúng ta vượt qua mọi giới hạn của cuộc sống.
Khi gấp lại những trang cuối cùng của Chiến binh cầu vồng, tôi cảm thấy nghẹn ngào đến không thở nổi. Hình ảnh các em học sinh trường Muhammadiyah, những đứa trẻ từng dám hy vọng và mơ mộng về một tương lai tươi sáng, nay phải chấp nhận số phận khắc nghiệt khiến tôi không cầm được nước mắt. Tôi sợ hãi khi phải lật sang trang tiếp theo, bởi lòng tôi không đủ mạnh mẽ để đối diện với những thất bại cay đắng mà các em phải gánh chịu. Câu nói của tác giả về "kẻ thù vô hình" – chủ nghĩa thực dụng – ám ảnh tôi mãi. Tôi đau lòng khi nhận ra rằng, dù giáo dục từng là ngọn lửa dẫn lối, nhưng trong thế giới này, không phải lúc nào sự học cũng đủ sức mạnh để chiến thắng nghèo đói và bất công. Điều đó làm tôi trăn trở: có bao nhiêu giấc mơ như Lintang, Mahar hay Harun ngoài đời thực đã bị dập tắt bởi hoàn cảnh? Nỗi đau ấy cứ len lỏi vào trái tim, khiến tôi cảm thấy bất lực, như thể mình cũng là một phần của sự bất công đó.
Tôi khóc, không chỉ vì câu chuyện buồn, mà còn vì niềm tự hào khi chứng kiến những chiến binh cầu vồng ấy dám ước mơ và chiến đấu hết mình. Dù cuối cùng, ước mơ của họ có thể chưa thành hiện thực, nhưng chính hành trình ấy đã biến họ thành những ngọn đuốc sáng, truyền cảm hứng cho tôi và những người đọc khác. Cuốn sách nhắc nhở tôi rằng cuộc sống không phải lúc nào cũng là một câu chuyện cổ tích có kết thúc đẹp, nhưng điều quan trọng là chúng ta đã sống ra sao, đã nỗ lực như thế nào. Những năm tháng ngắn ngủi các em được đến trường đã thắp lên ngọn lửa của niềm tin, của tình bạn, của những giấc mơ tưởng chừng không thể chạm tới. Và dù kết cục không trọn vẹn, tôi vẫn cảm thấy đây là một câu chuyện đẹp, một bài học sâu sắc về sự kiên trì, lòng can đảm, và giá trị của giáo dục. Tôi biết, mình sẽ không bao giờ quên những xúc cảm mà Chiến binh cầu vồng đã mang lại.